Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là khu vực dễ bị tổn thương do những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Đây là vùng đất nhập nước có khả năng nhiễm phèn sulfate thực tế và tiềm tàng rất cao. Thiệt hại này còn nhân lên vào mùa khô, làm cạn kiệt dòng chảy, gây hạn hán cho đồng ruộng, sản xuất nông, ngư nghiệp, chăn nuôi và đặc biệt là thiếu nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Khu vực này còn chịu tác động xâm nhập mặn của bán nhật triều ở Biển Đông và nhật triều ở Biển Tây. Bên cạnh đó, việc chặn nước trên dòng chính sông Mê Kông do các đập thủ điện của Trung Quốc và Lào đã gây ra đã gây ra nhiều ảnh hưởng đến vùng Châu thổ sông Cửu Long.
Nhằm cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích về vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu và các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông, năm 2024, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã ấn hành quyển sách “Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng và thích nghi với tác hại của biến đổi khí hậu và đập thuỷ điện thượng nguồn sông Mê Kông”. Sách do nhóm tác giả Lê Huy Bá, Nguyễn Xuân Hoàn, Nguyễn Tấn Phong, Lê Hùng biên soạn. Với độ dày 551 trang, sách được bố cục thành 03 phần.
Phần 01 gồm 03 chương, giới thiệu các khái niệm chung về biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan (như nước biển dâng, hạn hán, xâm nhập mặn, nhiễm mặn do thấm hay thẩm thấu…). Theo sách, nguyên nhân cốt lõi gây ra biến đổi khí hậu là sự nóng lên toàn cầu và sự tăng lên lượng khí nhà kính nhân tạo, phát thải từ hai nguồn chủ yếu: sử dụng nhiên liệu hóa thạch và khai thác phá rừng,… được quyết định cơ bản bởi sự gia tăng dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sử dụng nhiên liệu. Việt Nam sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tiếp theo nội dung, quyển sách nói đến sự hình thành El Nino; nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu do ENSO; các ảnh hưởng của ENSO; thiên tai ở Việt Nam do El Nino - La Nina; ảnh hưởng của ENSO đến yêu cầu tưới ở ĐBSCL và đến xâm nhập mặn. Ngoài ra, sách còn trình bày về vấn đề phèn hóa, mặn hóa, hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL; về chế độ thời tiết và thủy văn ĐBSCL. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa lưu vực sông Mê Kông nói chung, ĐBSCL có chế độ khí hậu, thủy văn phân hóa theo mùa rõ rệt. Trong mùa khô, lượng mưa không đáng kể, độ ẩm không khí thấp, nhiệt độ cao, bức xạ dồi dào và ngược lại vào mùa mưa. Sự phân hóa mùa khô rõ trên khu vực này đã gây ra xâm nhập mặn và khô hạn trên ĐBSCL. Mức độ khô hạn trở nên gay gắt và đô mặn cao nhất thường xảy ra vào tháng 3 - 4 mỗi năm.
Phần 02 gồm 04 chương, trình bày tổng quan về nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông cũng như về quy hoạch và phát triển thủy điện trên lưu vực con sông này. Từ đó, sách đánh giá tác động của các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông trong điều kiện biến đổi khí hậu, cũng như tác động của việc xây dựng các công trình thủy điện đến việc phát triển thủy sản, an ninh lương thực ở ĐBSCL (như giảm thiểu và ngăn chặn sự di cư đàn cá và đa dạng sinh học). Việc chặn nước trên dòng chính sông Mê Kông do trên 12 đập thủ điện lớn của Trung Quốc và 05 đập của Lào đã gây ra tình trạng thiếu nước cung cấp cho nông nghiệp, dân sinh, công nghiệp vùng hạ lưu, đặc biệt là vùng Châu thổ sông Cửu Long. Thêm vào đó, quyển sách còn trình bày sự biến động độc chất trong đất phèn ở ĐBSCL, như do bón vôi, đất ngập và khô nước, do tưới nước phèn cho lúa, do lên luống,… Đặc biệt, việc ảnh hưởng của nước biển dâng, thủy triều, xâm nhập mặn lên ĐBSCL cũng là nội dung trọng tâm được nhắc đến. Theo tính toán, mực nước biển sẽ dâng lên 33 - 45 cm vào năm 2050 và có thể sẽ tiếp tục dâng thêm. Khi mực nước biển dâng thêm 01 m, 14 triệu dân ở ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng, 40.000 km2 vùng đồng bằng bị ngập lụt và 1.700 km2 vùng ven biển bị chìm.
Từ những nối dung nêu trên, phần 03 quyền sách đưa ra các giải pháp ứng phó, thích nghi với tác hại kép do biến đổi khí hậu cùng đập thủy điện thượng nguồn lên ĐBSCL. Về giải pháp công trình là kiện toàn hệ thống đê và thành lập nhiều khu, ngăn mặn, giữ ngọt; xây dựng và hoàn thiện hệ thống công trình giữ nước ngọt hiện có trong vùng; xây dựng đập ngầm; xây dựng hệ thống đê biển, đê sông;… Về giải pháp phi công trình là sống thích ứng: thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp (như mô hình nuôi tôm nước lợ - luân canh lúa); thích ứng biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn trong phát triển xâm nhập mặn; vấn đề hợp tác liên vùng; thích ứng trong giao thông, du lịch;… Ngoài ra, quyển sách còn đề ra việc phân vùng dự trữ sinh thái cho nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển ĐBSCL.
Để tồn tại và phát triển, còn người và toàn xã hội phải thay đổi, thích nghi và cuối cùng là thích ứng với điều kiện sống mới: không chống lại các hiện tượng cực đoan của tự nhiên, tránh tác hại trực tiếp của biến đổi khí hậu, sống hài hòa với thiên nhiên, bao gồm các công trình kỹ thuật, phương thức tốt với một lối sống mới; đồng thời đấu tranh ngoại giao hợp lý với Trung Quốc, Campuchia, Lào để bảo vệ dòng chảy, phù sa và ổn định nguồn nước cho ĐBSCL.
Quyển sách “Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng và thích nghi với tác hại của biến đổi khí hậu và đập thuỷ điện thượng nguồn sông Mê Kông” đang được phục vụ tại Thư viện thành phố Cần Thơ. Mời bạn tìm đọc quyển sách với các mã số:
▪ Ký hiệu phân loại: 577.095978 / Đ455B
▪ PHÒNG MƯỢN: MC.006442; MC.006443
▪ PHÒNG ĐỌC ĐỊA CHÍ: DC.003210; DC.003211