Nói tới Nam bộ hay Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nhiều người nghĩ ngay tới một vùng đất sông nước với hệ thống sông rạch chằng chịt và đặc biệt là mùa nước nổi hằng năm kéo dài đôi ba tháng. Những đặc điểm này bao đời qua gắn chặt vào đời sống hằng ngày của cư dân địa phương.
Quyển sách “Văn hoá miệt vườn sông nước Nam Bộ” do Nguyễn Hữu Hiếu biên soạn, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2020 sẽ giới thiệu đến bạn đọc những thông tin hữu ích về vai trò tác động của sông nước trong đời sống văn hóa của cư dân Nam bộ từ xưa đến nay. Với độ dày 691 trang, sách được bố cục thành 06 chương.
Chương I giới thiệu vài nét về môi trường sông nước đồng bằng Nam bộ như: điều kiện tự nhiên hình thành mùa nước nổi; tính quyết định của đặc điểm sông nước đến đời sống của cư dân; về kinh tế, văn hóa miệt vườn. Theo đó, vùng đất Nam bộ có địa hình khá bằng phẳng với hệ thống sông rạch dày đặc: hệ thống sông Cửu Long, hệ thống sông Vàm Cỏ, hệ thống sông ở bán đảo Cà Mau. Nơi đây có hiện tượng nước lớn, nước ròng hằng ngày và đáng chú ý hơn là hằng năm có mùa nước nổi kéo dài đôi ba tháng, có nơi bị ngập sau dưới 03 - 04 m… Mấy trăm năm qua, bao thế hệ con người ở đây luôn thích ứng với môi trường sông nước, nương vào quy luật tự nhiên.
Chương II trình bày về tổ chức không gian nơi cư và ẩm thực của cư dân địa phương. Về nơi ở, cư dân thường cất nhà trên hai bên bờ sông, rạch; hai bên đường/ lộ xe; hoặc bờ kênh có đường đi. Tùy theo mực nước ngập hằng năm cao hay thấp, mỗi vùng, mỗi địa phương xây dựng theo một trong ba kiểu nhà phổ biến sau: nhà nền đất đắp cao, nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất. Vì ở vùng sông nước nên trên mâm cơm hằng ngày của cư dân ĐBSCL chủ yếu là cơm, cá mắm và rau (lượng cá và rau chiếm tỷ lệ cao); các món mắm và nước mắm, cá và chuột đồng. Đặc biệt, nhà nào cũng có cái giàn bếp đặc đặt một góc trong gian nhà bếp - là một sản phẩm, đúc kết kinh nghiệm tri thức dân gian qua nhiều thế hệ sống chung với mùa nước lên; một minh chứng cụ thể, nói lên bản lĩnh con người trong việc ứng phó với thiên nhiên.
Chương III giới thiệu phương tiện đi lại và vận chuyển của cư dân miệt vườn vùng sông nước Nam bộ ngày xưa. Về phương tiện trên bộ, đến cuối thế kỷ XIX thì có xe bò, xe trâu, xe ngựa; thời Pháp thuộc có phà và hệ thống cầu khỉ. Phương tiện dưới nước thì có xuồng, ghe, bè chuối,…
Chương IV trình bày các hoạt động kinh tế của cư dân miệt vườn sông nước ngày xưa. Hoạt động kinh tế chủ yếu ở đây là canh tác cây lúa nổi, tuy nhiên với kỹ thuật canh tác hai vụ hiện nay, cây lúa nổi không còn phù hợp nữa. Ngoài ra còn có khai thác động vật hoang dã (nổi bật là săn bắt chuột đồng) và đánh bắt cá; nghề đóng xuồng, ghe. Nổi bật trong các hoạt động kinh tế đó chính là hoạt động thương hồ (buôn bán bằng ghe trên sông nước) với các chợ nổi - chợ nhóm họp trên sông nước. Địa điểm họp chợ nổi là nơi sông sâu, nước chảy vừa phải, không nguy hiểm cho các xuồng ghe neo đậu, gắn liền với cụm dân cư hoặc chợ trên bờ. Khởi thủy các ghe thương hồ dừng lại nơi đây bán hàng cho các chành, vựa trên bờ. Hàng hóa phải tốn chi phí khuân vác lên bờ. Qua thời gian, xuất hiện một số ghe thu mua hàng do các ghe thương hồ từ nơi khác chở đến chứa tại ghe, rồi bán lại cho các ghe thương hồ khác đến mua. Cách làm này tiết kiệm được chi phí, từ đó chợ nổi hình thành, hàng hóa bán mua đều diễn ra ngay trên mặt sông nước. Một số chợ nổi nổi tiếng: Cái Bè, Cái Răng, Ngã Bảy,… Ngoài ra, trong vùng còn có một số nghề đặc biệt khác như: cắt/ gặt lúa mướn, phát cỏ mướn, cầm trâu, nhỏ cỏ bàng và đươn đệm, chằm lá,…
Chương V nói về tri thức dân gian vùng sông nước Nam bộ. Về lựa chọn không gian cư trú, khu vực được chọn để cư trú là những nơi sát hoặc gần bờ sông, bờ rạch, cao ráo, có đất chắc thịt; thuận tiện cho việc đi lại, chuyên chở. Căn cứ vào mực nước nổi mà làm nền nhà. Ngôi nhà ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với vị trí gần sông rạch, có vườn tược, hàng rào cây xanh bao quanh, cửa ngõ chếch một bên, bàn thờ Ông Thiên ở giữa sân, sát hàng rào, ngõ thường xuyên để mở, với lu nước sạch có nắp đậy và cái gáo múc nước là kết quả của một quá trình tích lũy bổ sung kinh nghiệm sống trên vùng sông nước của mấy trăm năm qua. Trong canh tác nông nghiệp, việc đưa cây lúa nổi (lúa vượt nước) vào canh tác là biểu hiện thực tế cho thấy quyết tâm sống chung với mùa nước lên. Căn cứ vào con nước mà sáng chế ra các loại ngư cụ phù hợp để đánh bắt thủy sản. Ngoài ra, kỹ thuật đào mương lên liếp lập vườn ngày càng được nâng cao, do thế hệ sau quan sát, rút kinh nghiệm từ thế hệ trước. Nhiều phương tiện giao thông thủy được sáng tạo để phù hợp địa hình và nhu cầu sử dụng: xuồng/ghe lườn, xuồng cui, xuồng ba lá, ghe tam bản,… Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phần lớn các chiến thắng lừng danh đều có sự hiện diện của yếu tố sông nước với ba trận đánh nỏi tiếng: Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), Vàm Nao - Sông Tiền (1834), Gò Quảng Cung - Giồng Thị Đam (1959).
Chương VI là hình ảnh sông nước trong đời sống văn hóa Nam bộ. Theo đó số từ ngữ chỉ những sự vật, hiện tượng liên quan đến sông nước hoặc có tính chất có liên quan tới vùng sông rạch để so sánh hoặc tạo lối nói ẩn dụ, hoán dụ,… vô cùng phong phú, đạ dạng, là nguồn đóng góp của phương ngữ Nam bộ vào ngôn ngữ toàn dân. Sông nước trong ca dao là biểu tượng của sự to lớn mênh mông vô tận trong không gian cũng như trong tình cảm; gợi lên hình ảnh liên tưởng khác nhau về thân phận con người, đời người;… Về đời sống tâm linh thì có tục thờ cúng Quan Âm Nam Hải, Bà - Cậu, Bộ Ngư và Cai Ngư; lễ tống ôn - tống gió; tín ngưỡng thờ Thiên;…
Đọc quyển sách, bạn có thể nhận ra rằng không nơi nào trên đất nước Việt Nam, con người có cuộc sống gắn bó như máu thịt đối với sông nước như cư dân Nam bộ; từ cách chọn nơi cư trú đến tổ chức nơi ăn chốn ở, lao động tìm cái sống, đến lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán đều có sự chi phối, đều bàng bạc, ẩn hiện tính sông nước,…
Quyển sách “Văn hoá miệt vườn sông nước Nam Bộ” đang được phục vụ tại Thư viện thành phố Cần Thơ. Mời bạn tìm đọc quyển sách với các mã số:
▪ Ký hiệu phân loại: 390.09597 / V115H
▪ PHÒNG MƯỢN: MA.026057